Tên di sản : Đền Thánh Cả (Đền Tứ vị Thánh Nương)

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di tích : Di tích lịch sử

Sô quyết định : Số 178/QĐ-UBND

Giới thiệu

Đền Thánh Cả nằm ở trung tâm làng Vạn Thắng quay mặt về hướng Đông - Đông Nam, hướng ra biển. Phía Bắc giáp sông Mã, phía Nam giáp cánh đồng Khang đến xã Hưng Lộc, phía Tây giáp sông Mã và Đồng Tiến xã Hưng Lộc. Đền được xây dựng dưới thời Nguyễn có quy mô vào loại lớn của tỉnh Thanh Hóa, điều này có thể biết được qua cổng Nghinh môn của đền cũ còn được tồn tại đến hôm nay mà dự đoán được quy mô của khu vực đền chính. Điều này, còn được biết thêm qua các di vật còn lại ở đền như đá lan được chạm trổ đường truyện dài tới hơn 3m, cùng với những chân tảng cổ bồng có đường kính tới 0,35m. Các cụ già ở đây còn cho biết: Đền chính trước đây có 5 gian, cấu trúc hình chữ Đinh (J) bề thế, có bộ khung gỗ với nhiều mảng chạm khắc cầu kỳ, tinh xảo. Hiện nay, khu vực đền chính này đã được thay thế bằng một ngôi đền mới được xây dựng lại vào mấy năm trở lại đây. Tuy nhiên, những gì còn lại ở đây vẫn là những tài sản có giá trị của một di tích cần phải được bảo vệ, gìn giữ.

Cổng Nghinh Môn: là một công trình kiến trúc thời Nguyễn còn lại tương đối khá nguyên vẹn. Toàn bộ công trình này được bố trí gần như hết vị trí đất ở phía trước khu vực sân đền chính gồm: Cổng ra vào - tường nối và cột nanh.

Cổng ra vào có cấu trúc gồm một cổng chính và hai cổng phụ, cổng chính có chiều rộng 4,97m, lòng cửa rộng 3,15m, chiều cao cửa là 10,4m, dày 3,57m. Kiến trúc cổng chính xây dựng khá kiên cố gồm 3 tầng mái. Tầng dưới cùng là một kết cấu hình hộp vuông vức bốn mặt, ở giữa được trổ cửa hình vòm cao đến gần sát mái, hai bên là hai cột trụ được xây lồi ra vừa làm nhiệm vụ đỡ mái, vừa là nơi để trang trí những câu đối trên bề mặt. Đầu và chân của hai cột này được đắp những đường gờ chỉ tạo nên sự mềm mại. Ở khoảng trống giữa cột nanh với cửa vòm và giữa cửa vòm với mái được trang trí những bức phù điêu nổi hình đường truyện và hoa lá cách điệu. Ở phía trên là mái cấu trúc cong ở bốn góc, mái lợp ngói mũi. Tầng hai được cấu trúc thụt vào phía trong trên một đế đỡ giống như một cổ diêm chắc chắn. Ở trên cổ diêm này xây 4 trụ gạch vuông vức, 4 mặt tạo ra bốn cửa hình vòm thông nhau. Để tạo nên sự mềm mại của công trình ở trên đầu trụ gạch này là hệ thống mái cong nhỏ. Khoảng cách giữa mái của tầng hai với đỉnh mái của tầng ba là hệ thống cột giả được đắp lồi ra, xung quanh của cột giả này được đắp những đường truyện nổi, tầng trên cùng được nối với tầng hai bởi một cổ diêm; phía trên cổ diêm là mái cổng cong 4 góc, trên đỉnh mái đắp đường truyện nổi, mái lợp ngói ống.

Ở hai bên cửa chính là hai cửa phụ. Hai cửa phụ này giống nhau về hình dáng và cấu trúc với ba tầng mái. Chân đế rộng 2,9m, dày 1,7m. Tầng một được xây sát vào bức tường bên của cổng chính có chiều cao từ mặt nền đến tầng hai là 2,35m. Ở tầng dưới này người thợ không tạo thành các mái như cổng chính mà chỉ đắp các đường gờ chỉ chạy xung quanh. Phía trên là hai tầng mái cong được cấu trúc nhô về phía trên. Ở tầng thứ hai được trổ 4 cửa vòm thông nhau, còn trên tầng ba là hệ thống cửa thoáng dựng gạch đứng thoáng mặt trước mặt sau.

Để tạo nên sự bề thế của công trình thì ở sát hai cổng phụ, người ta đã xây dựng một bức tường chạy theo chiều của cổng ra hai phía, ở cuối của hai bức tường này là một cột nanh cao được tạo dáng hình trụ, đắp các đường gờ chỉ, bề mặt để trang trí cấu đối, đỉnh cột có đắp hình con sấu. Còn tường nổi đắp nổi hình hai con voi và hai con ngựa đối xứng nhau.

Nhìn chung, cổng Nghinh môn này từ cổng chính cho đến cổng phụ đều có cấu trúc hình tháp chữ nhật. Sự khác nhau của tháp Phật giáo là làm hình bát giác và mỗi cửa cuốn để đặt tượng Phật như một khám nhỏ. Dạng hình tháp kiểu nghinh môn này có cấu trúc hình chữ nhật, ở tầng hai, phía trong được treo chuông.

Có thể nói cổng Nghinh môn đền Thánh Cả ở xã Đa Lộc là một trong những công trình thời Nguyễn quy mô đồ sộ và giá trị cao về kiến trúc và nghệ thuật còn lại đến ngày nay.

Hiện nay, trên bề mặt của cổng Nghinh Môn này vẫn còn hệ thống văn tự bằng chữ Hán.

Đền chính: Là một công trình có quy mô to lớn và bề thế đã bị phá dỡ để sử dụng vào mục đích khác vào những năm 70 của thế kỷ trước. Ngôi đền hiện nay mới được xây dựng lại vào năm 2007 có kết cấu hình chữ Đinh (J) gồm Tiền đường và Hậu cung.

Tiền đường có chiều dài 11m, rộng 7,5m (kể cả hiên) cấu trúc của nhà Tiền đường làm theo kiểu dáng hai tầng mái có cổ diêm, mái lợp ngói mũi, đỉnh mái đắp hình lưỡng long chầu nguyệt. Vì kèo nhà tiền đường là sự biến thể của vì kèo truyền thống gồm quá giang, câu đầu, đấu trụ, kẻ truyền và hệ thống chồng rường, không có cột.

Nhà Hậu cung: Có kết cấu đơn giản được nối với nhà Tiền đường bằng hai cửa đi vào từ 2 bên. Phía trên là hệ thống vì kèo được cấu trúc theo kiểu dáng của biến thể vì kèo truyền thống.

Bài trí Ngai thờ và tượng thờ ở đền chính theo cách bố trí của một đền thờ mẫu như sau:

Hậu cung: Lớp bàn thứ nhất là 4 pho tượng Mẫu.

Lớp thứ hai là ngai thờ và bài vị Tứ vị Thánh nương.

Tiền đường: Ban thờ Đức thánh Trần Triều (Trần Hưng Đạo).

Với cách bài trí và sắp đặt như vậy cho thấy hệ thống tượng thờ ở đây còn chưa phù hợp, cần phải có sự nghiên cứu và sắp đặt lại.

Các hiện vật trong di tích:

Đền Thánh Cả hiện có những hiện vật sau:

Hậu cung: Tượng Mẫu: 4 pho (mới); Ngai thờ: 3 (mới); Bài vị: 03 (mới); Đài nước: 6 (mới); Ống hương: 02 (mới); Chân đèn: 02 (mới); Lư hương đồng: 01 (mới); Bát hương sứ: 03 (mới); Lục bình to: 02 (mới)

Tiền đường: Tượng thờ Trần Hưng Đạo và các tượng khác: 13 pho (mới); Chân đèn đồng: 02 (mới); Bát hương sứ: 02 (mới); Lục bình to: 04 (mới); Bát hương sứ to: 02 (mới); Đài nước: 03 (mới); Kiệu: 01 (mới); Chuông đồng: 01 (mới); Đại tự: 01 (mới); Câu đối: 02 (mới); Trống nhỏ: 01 (mới); Trống vừa: 01 (mới); Đĩa Sứ: nhỏ 14, to 9 (cũ);  Bát sứ: 6 (cũ); Nâm rượu: 2 (cũ).

Hình ảnh Đền Thánh Cả (Đền Tứ vị Thánh Nương)

Đền Thánh Cả (Đền Tứ vị Thánh Nương)

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật